Có nhiều trường hợp mà hợp đồng lao động bị chấm dứt sớm theo sự thỏa thuận giữa hai bên và được pháp luật lao động thừa nhận theo Điều 34.3 của Bộ luật Lao động hiện hành.
Để có được sự đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn của người lao động và cũng vì lý do người lao động không nhận được trợ cấp thôi việc khi thôi việc do trong đa số các trường hợp đã có đóng bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng, người sử dụng lao động thường phải trả cho người lao động một khoản tiền nào đó nhằm vào các mục đích chính đó là:
· Bù đắp cho việc người lao động không nhận được trợ cấp thôi việc;
· Bù đắp cho việc hợp đồng lao động của người lao động bị chấm dứt sớm;
· Hỗ trợ chi phí hợp lý để người lao động trang trải chi phí sinh hoạt trong thời gian tìm một công việc mới phù hợp; và
· Chia sẻ cho sự sụt giảm thu nhập của người lao động nếu công việc làm mới không có được mức thu nhập và phúc lợi tương đương với mức hiện tại mà người lao động được hưởng.
Tuy nhiên, một bài toán khó đặt ra không chỉ cho doanh nghiệp mà còn đối với người lao động là số tiền bồi thường sẽ là bao nhiêu thì được xem là mức hợp lý cho cả hai bên. Về phía doanh nghiệp, số tiền này không những phải phù hợp với mức ngân sách chi phí doanh nghiệp dành cho việc này mà còn không được tạo ra sự chênh lệch lớn giữa trường hợp này và các trường hợp tương tự khác xảy ra trước đây tại doanh nghiệp để tránh sự so bì làm ảnh hưởng đến môi trường làm việc bình đẳng. Còn ở phía người lao động, số tiền này bao nhiêu sẽ còn tùy thuộc vào vai trò, vị trí của người lao động trong doanh nghiệp; người lao động có dễ dàng nhanh chóng tìm được một công việc mới phù hợp với kiến thức, kinh nghiệm và mức thu nhập hợp lý không.
Theo thực tế thị trường lao động hiện nay thì mức hỗ trợ thông thường sẽ dao động trong khoảng từ một đến hai tháng lương theo hợp đồng cho mỗi năm làm việc nhưng trong mọi trường hợp sẽ không thấp hơn hai tháng lương theo hợp đồng.
Sau khi đã chốt được số tiền mà người lao động sẽ được nhận khi đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn, một việc khác cũng đau đầu không kém là người sử dụng lao động phải khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo mức lũy tiến từng phần (thu nhập càng nhiều thì đóng thuế càng nhiều từ mức 5% – 35%) hay mức lũy tiến toàn phần ở mức 10% trên phần tiền thanh toán đó.
Đối với vấn đề này, chưa có bất kỳ văn bản hướng dẫn cụ thể nào nên có rất nhiều cách hiểu khác nhau cho việc khấu trừ thuế theo phương pháp nào. Để làm rõ vấn đề này, một số lập luận sau được đưa ra thông qua các quy định pháp luật hiện cũng như kinh nghiệm thực tiễn khi làm việc với các cơ quan thuế:
Điều quan trọng nhất là cần phải xét khoản hỗ trợ tài chính này được chi trả trước hay sau thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. Bởi thời điểm có hiệu lực của văn bản chấm dứt hợp đồng lao động là cột mốc để xét xem khoản chi trả này có tính chất tiền lương, tiền công hay không và có nằm trong mối quan hệ hợp đồng lao động không. Như vậy sẽ xảy ra hai trường hợp như sau:
Thứ nhất, nếu khoản hỗ trợ tài chính được chi trả sau khi chấm dứt hợp đồng lao động thì hoàn toàn được khấu trừ ở mức thuế 10% bởi vì việc thanh toán diễn ra trong thời gian không còn quan hệ hợp đồng lao động nên có thể xem giữa người lao động và doanh nghiệp không có hợp đồng lao động tại thời điểm đó.
Khi đó, khoản hỗ trợ tài chính này sẽ không mang tính chất là tiền công trong quan hệ không có hợp động lao động. Và theo quy định tại Điều 25.1.i của Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/9/2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế Thu nhập cá nhân, doanh nghiệp sẽ khấu trừ với mức thuế là 10%.
Thứ hai, ngược lại, nếu được chi trả trước khi chấm dứt hợp đồng lao động (thông thường là tại thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động) thì khoản hỗ trợ tài chính được chi trả trong khi các bên còn duy trì mối quan hệ lao động.
Mặc dù nó mang bản chất là khoản hỗ trợ tài chính sau khi thôi việc nhưng ở thời điểm này việc chi trả khoản hỗ trợ khi thôi việc là không hợp lý vì sự kiện chưa xảy ra. Do đó, đây vẫn là một khoản chi trả mang tính chất là tiền lương, tiền công nên theo quy định được khấu trừ theo cách tính lũy tiến từng phần. Khi đó, công ty thực hiện tổng hợp cùng với tiền lương, tiền công để khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo biểu thuế lũy tiến từng phần trước khi chi trả.