Toà nhà 34T, Hoàng Đạo Thuý, KĐT Trung Hoà Nhân Chính, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Hotline : 0989 244 558

Tin tức Giải đáp của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao về các vấn đề pháp lý ở Việt Nam

Vào ngày 24 tháng 4 năm 2023, Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (TANDTC) đã tổ chức một hội nghị trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong công tác xét xử của các Tòa Án. Công Văn số 196/TANDTC-PC do TANDTC ban hành ngày 03 tháng 10 năm 2023 (Công Văn) ghi lại kết quả từ hội nghị trực tuyến diễn ra vào tháng 4. Công Văn này chủ yếu bao gồm việc làm rõ và giải thích của TANDTC về các quy định pháp luật hiện hành trong các lĩnh vực pháp luật khác nhau, bao gồm hình sự, dân sự, thương mại, và hành chính. Mặc dù việc làm rõ và giải thích này không có tính ràng buộc, chúng tạo thành một nguồn giải thích pháp luật quan trọng để hệ thống tòa án có thể dựa vào.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ thảo luận về một số giải đáp từ Công Văn mà chúng tôi thấy thú vị hoặc đáng chú ý:

1. Chủ thể của tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán” (Điều 209 BLHS 2015) là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm công bố thông tin về chứng khoán, chứ không phải là các bên trong giao dịch mua bán chứng khoán.

Bình luận của chúng tôi: Giải đáp của TANDTC là không rõ ràng vì theo các quy định về chứng khoán, đôi khi các bên tham gia giao dịch chứng khoán phải công bố thông tin về giao dịch đó (ví dụ: bán hoặc mua cổ phiếu của một cổ đông lớn/nội bộ). Vì vậy, dường như tội phạm này chỉ áp dụng đối với người vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật về chứng khoán mà không áp dụng đối với người không công bố thông tin theo nghĩa vụ hợp đồng.

2. Trường hợp một bên trong một tranh chấp thương mại là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần có nhiều người đại diện theo pháp luật nhưng Điều Lệ của doanh nghiệp đó không phân định trách nhiệm và quyền hạn cho từng người đại diện theo pháp luật và không có giấy ủy quyền hoặc thỏa thuận về người đại diện cho công ty trong tranh chấp đó thì tòa án cần căn cứ vào Điều 12.2 Luật Doanh Nghiệp 2020 để xác định tất cả những người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp để tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Bình luận của chúng tôi: Mặc dù cách diễn đạt trong Công Văn vẫn còn hơi mơ hồ, vì Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC đã dựa vào Điều 12.2 của Luật Doanh Nghiệp 2020, nên giải đáp này nên được hiểu là bất kỳ người đại diện theo pháp luật nào của doanh nghiệp đều có toàn quyền đại diện cho doanh nghiệp đó trong quá trình tố tụng.

3. Trong trường hợp các bên tranh chấp không yêu cầu tòa án tuyên bố thỏa thuận giữa họ là vô hiệu, (1) nếu tòa án thấy thỏa thuận đó tuân thủ đúng quy định pháp luật thì tòa án phải công nhận hiệu lực của thỏa thuận đó, (2) nếu tòa án xét thấy thỏa thuận vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật thì tòa án phải tuyên bố thỏa thuận đó là vô hiệu, bất kể các bên có yêu cầu hay không. (đoạn III.7).

Bình luận của chúng tôi: Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC không đề cập đến bất kỳ điều khoản cụ thể nào của luật liên quan đến việc “[vi phạm] các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật”. Do đó, chúng tôi thấy rằng điều này nên bao gồm (i) Điều 117 (Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự) và Điều 122 (Giao dịch dân sự vô hiệu) của Bộ Luật Dân Sự 2015, vì hai quy định này dường như hoàn toàn phù hợp với mô tả, và (ii) các trường hợp khác có hiệu lực tương tự, chẳng hạn như Điều 123 (Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội) của Bộ Luật Dân Sự 2015.

Mặt khác, vẫn chưa rõ liệu một thỏa thuận vô hiệu vì (các) lý do khác ngoài “vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật” (ví dụ, trường hợp theo Điều 408 (Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được) của Bộ Luật Dân Sự 2015) có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu ngay cả khi các bên trong tranh chấp không có yêu cầu tòa án tuyên vô hiệu hay không.

4. Trường hợp quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản bảo đảm trong hợp đồng thế chấp đã hết thời hạn sử dụng đất trong thời hạn của hợp đồng thế chấp nói trên thì hợp đồng thế chấp bị chấm dứt theo quy định tại Điều 422.5 Bộ Luật Dân Sự 2015 (chấm dứt hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn) nếu quyền sử dụng đất không được gia hạn

Bình luận của chúng tôi: Do bên thế chấp có thể quyết định về việc có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền gia hạn quyền sử dụng đất hay không, hợp đồng thế chấp cần được soạn thảo để tránh rủi ro mà bên thế chấp cố tình để quyền sử dụng đất hết hạn trong thời hạn của hợp đồng thế chấp để thoát khỏi hợp đồng thế chấp.

Gửi bình luận

Đặt Lịch Hẹn

Quý khách vui lòng chọn lịch hẹn