Toà nhà 34T, Hoàng Đạo Thuý, KĐT Trung Hoà Nhân Chính, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Hotline : 0989 244 558

Tin tức Hậu Quả Của Việc Vi Phạm Đại Diện Và Bảo Đảm Theo Pháp Luật Việt Nam

Hậu Quả Của Việc Vi Phạm Đại Diện Và Bảo Đảm Theo Pháp Luật Việt Nam
Như đã trình bày chi tiết trong bài viết trước, theo quan điểm của chúng tôi, những tuyên bố và bảo đảm (bảo đảm) phải cấu thành nghĩa vụ của người đưa ra nó theo luật pháp Việt Nam. Chúng có thể ngụ ý nghĩa vụ của người cung cấp chúng (Người bảo đảm) để đảm bảo rằng các sự kiện và vấn đề đã nêu là đúng sự thật. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng xem xét hậu quả của việc vi phạm cam kết và bảo đảm theo pháp luật Việt Nam. Như được thảo luận sâu hơn bên dưới, tùy thuộc vào ngữ cảnh, việc vi phạm bảo đảm có thể dẫn đến:
· trách nhiệm pháp lý do vi phạm bảo đảm là nghĩa vụ độc lập; hoặc
· trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ giao hàng phù hợp; hoặc
· Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các bên trong hợp đồng; hoặc
· Bồi thường (hoặc hoàn trả) các tổn thất trong phạm vi các bên đã thỏa thuận về việc bồi thường (hoặc hoàn trả) các tổn thất phát sinh do vi phạm bảo đảm.
Do “tuyên bố và bảo đảm” chỉ là những khái niệm thông thường và không có khung pháp lý cụ thể nào được quy định trong pháp luật Việt Nam nên điều quan trọng là hợp đồng theo pháp luật Việt Nam phải có các điều khoản giải quyết những vấn đề trên để đạt được kết quả mong muốn của các bên.
Có lẽ dựa trên cuộc thảo luận bên dưới, cách tiếp cận thích hợp hơn là có cách diễn đạt cụ thể trong hợp đồng mua bán cổ phần, trong đó bảo đảm là một phần mô tả và chất lượng của cổ phiếu bán để, trong số những điều khác, người bán có thể phải chịu các biện pháp khắc phục. áp dụng đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ giao hàng không phù hợp.
Trách nhiệm do vi phạm bảo đảm như vi phạm nghĩa vụ độc lập
Bảo đảm có thể cấu thành nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam. Theo đó, về mặt kỹ thuật, việc vi phạm bảo đảm là vi phạm nghĩa vụ và làm phát sinh trách nhiệm pháp lý đối với người bán. Tuy nhiên, nếu coi bảo hành là nghĩa vụ độc lập thì chưa rõ cách xác định thiệt hại phát sinh do vi phạm bảo hành theo pháp luật Việt Nam. Để giảm thiểu điều này, các bên có thể cần phải đồng ý về những gì sẽ được coi là thiệt hại nếu có vi phạm bảo đảm.
Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ giao hàng phù hợp
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005, việc bán cổ phiếu có thể được coi là bán “hàng hóa” (hàng hóa). Theo đó, người bán cổ phần trong công ty sẽ có nghĩa vụ giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận của các bên về chất lượng, số lượng, đóng gói, bảo trì và các vấn đề khác. Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định chi tiết các biện pháp xử lý trong trường hợp hàng hóa không bảo đảm chất lượng, quy cách đã thỏa thuận.
Mặc dù các yêu cầu trên phù hợp hơn với hàng hóa thông thường nhưng chúng vẫn có thể áp dụng đối với cổ phiếu trong một công ty. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ điều gì có thể cấu thành “chất lượng, số lượng và các vấn đề khác” của hàng hóa theo hợp đồng mua bán cổ phần.
Sự đảm bảo về tình trạng và điều kiện của một công ty có tác động đáng kể đến giá trị của công ty, từ đó xác định giá trị cổ phiếu của công ty đó theo hợp đồng mua bán cổ phần. Theo đó, những bảo đảm hợp lý trong hợp đồng mua bán cổ phần phải cấu thành nên chất lượng của cổ phiếu đó. Tuy nhiên, người ta vẫn có thể lập luận rằng chỉ có mệnh giá, số lượng cổ phiếu và các quyền gắn liền với cổ phiếu liên quan mới cấu thành chất lượng và số lượng hàng hóa theo hợp đồng mua bán cổ phần. Để tránh tranh luận tiềm ẩn như vậy, hợp đồng mua bán cổ phần cần có từ ngữ để làm rõ rằng các bảo đảm cấu thành mô tả và chất lượng của cổ phiếu được chuyển nhượng.
Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các bên trong hợp đồng
Theo Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc bên kia chấp nhận giao kết hợp đồng thì phải thông báo cho bên kia biết. Nếu bên đó không thực hiện mà gây thiệt hại, mất mát thì bên đó phải bồi thường. Theo đó, nếu bên bán vi phạm Bảo đảm, bên mua trong hợp đồng mua bán cổ phần có thể cho rằng bên bán đã không thông báo cho bên mua về bảo hành không chính xác và do đó phải bồi thường cho bên mua những mất mát và thiệt hại.
Tuy nhiên, có một số vấn đề với cách tiếp cận này. Đầu tiên, người mua phải chứng minh rằng người bán “có thông tin” về việc vi phạm bảo hành. Điều này có thể không phải lúc nào cũng đúng. Đôi khi, người bán cũng không biết về việc vi phạm bảo hành. Thứ hai, ngay cả khi người mua chứng minh được rằng người bán “có thông tin” về việc vi phạm bảo hành và không tiết lộ cho người mua thì người mua cũng cần chứng minh được thiệt hại do không tiết lộ thông tin. Theo luật pháp Việt Nam, việc này có thể khó khăn hơn việc chứng minh thiệt hại do không giao hàng phù hợp.
Trách nhiệm bồi thường (hoặc hoàn trả) tổn thất
Vì bảo đảm không phải là một khái niệm pháp lý theo pháp luật Việt Nam nên việc vi phạm bảo đảm không dẫn đến nghĩa vụ bồi thường theo mặc định. Điều đó nói lên rằng, các điều khoản bồi thường khá phổ biến trong hợp đồng mua bán cổ phần. Điều khoản bồi thường trong hợp đồng mua bán cổ phần có thể được coi là một cam kết theo hợp đồng của người bán để hoàn trả cho người mua một số tổn thất và thiệt hại nhất định nếu vi phạm bảo hành.
Tuy nhiên, có một mức độ không chắc chắn nhất định về tính hiệu lực và khả năng thực thi của điều khoản bồi thường trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam (xem tại đây và tại đây).
Nguồn: https://vietnam-business-law.info/blog/2024/2/3/consequences-of-breaches-of-representations-and-warranties-under-vietnamese-law 

Gửi bình luận

Đặt Lịch Hẹn

Quý khách vui lòng chọn lịch hẹn